| ||||
Nhưng khi
hung thần bệnh dịch tệ hại nhất thế gian mang tên Ebola đang hoành hành
tại phía tây lục địa châu Phi, có một điều quan trọng mà chúng ta cần
phải ghi nhớ, là chúng ta ở qua xa, nên không được tận mắt thấy cơn hiễm
họa ấy. Nhà sinh vật học phân tử từng trúng giải Nobel tên Joshua
Lederberg khi còn sinh tiền đã từng cảnh tỉnh: “Mối đe dọa đơn phương
lớn nhất cho nhân loại hiện vẫn tiếp tục ngự trị trên hành tinh chúng
ta, là con virút. ”
Cali Today News - Kể từ
khi phe al-Qaeda tổ chức 4 vụ cướp máy bay cùng buổi sáng hôm
11/09/2001 để tấn công Hoa Kỳ, người Mỹ đã sáng mắt ra để thích nghi với
một điều khó chối cải: do địa cầu ngày nay đã trở thành nhỏ bé hơn
trong khi phương tiện giao thông dễ dàng hơn, thế giới trở thành nguy
hiểm hơn, và việc kiểm soát nó trở thành phức tạp hơn. Giống như tình
trạng vỡ đê, những biện pháp cứu lụt dù có nhưng cũng chỉ hoài công như
chút muối bỏ xuống biển. Chúng ta đã làm bất cứ những gì có thể để phòng
chống: tại phi trường, chúng ta lột giày và liệng bỏ mọi chai nước uống
vào thùng rác. Trên xe buýt và trên các chuyến xe điện ngầm, chúng ta
được nhắn nhũ, nếu thấy gì khả nghi thì báo ngay cho nhân viên công lực.
|
| ||||
Nhưng khi
hung thần bệnh dịch tệ hại nhất thế gian mang tên Ebola đang hoành hành
tại phía tây lục địa châu Phi, có một điều quan trọng mà chúng ta cần
phải ghi nhớ, là chúng ta ở qua xa, nên không được tận mắt thấy cơn hiễm
họa ấy. Nhà sinh vật học phân tử từng trúng giải Nobel tên Joshua
Lederberg khi còn sinh tiền đã từng cảnh tỉnh: “Mối đe dọa đơn phương
lớn nhất cho nhân loại hiện vẫn tiếp tục ngự trị trên hành tinh chúng
ta, là con virút. ” Có một số nhà chuyên môn nghiên cứu về dịch tễ học
đã không đồng ý như thế, vì virút Ebola chẳng dùng bom mìn, không chất
độc, không cướp máy bay, không lên phương án tấn công tinh vi để mang
lại hậu quả với cường độ phá hoại và tiêu diệt như bọn khủng bố
al-Qaeda.
Thực tế là, chúng ta
không cần phải mất quá nhiều công khó để biết được tác hại của những con
vi trùng độc địa. Chỉ tính riêng trong thế kỷ 20, bệnh đậu mùa đã làm
chết 500 triệu sinh mạng trước khi nó bị loài người đánh bật gốc vào
thập niên 1970. Chẳng thế mà vừa mới hai tuần trước, công chúng Mỹ không
khỏi giật mình sốt vó khi Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ
(FDA) bất ngờ phát hiện tại phòng lạnh trong tầng lầu thứ ba của cao ốc
số 29A thuộc kho lưu trữ của Viện Nghiên cứu Vệ sinh Quốc gia tại
Bethesda, Maryland một loạt gồm 12 thùng nguyên và 327 ống rời chứa các
virút mầm bệnh sốt xuất huyết miền nhiệt đới cũng như sốt màng não miền
núi bị bỏ quên nhiều năm. Ngay tức khắc, các mầm bệnh để nghiên cứu nầy
được máy bay chở tới Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) ở
Atlanta để khảo sát, và kết quả là một phần lớn các mẩu virút nầy vẫn
còn sinh động.
Đến thứ Năm 31/07/2014,
đúng lúc Tòa Bạch Ốc khẳng định vẫn tiến hành Hội nghị Thượng đỉnh
Mỹ-Phi tại thủ đô từ ngày 4 đến 6/08/2014, tổng thống nước Sierra Leone
ông Ernest Bai Koroma đã đình hoản chuyến đi, và tuyên bố tình trạng
khẩn trương về y tế tại đất nước mình do virút bệnh Ebola đang hoành
hành, đồng thời huy động quân đội để kiểm dịch dân chúng trong các vùng
bị nặng nhất. Trong một bài diễn văn truyền hình, ông Koroma nói với
quốc dân: “Sierra Leone đang lâm chiến với kẻ thù lớn, mà không được
phép bại trận. ” Một vài biện pháp khẩn trương là cô lập các vùng dân cư
đang bị bệnh và cấm hẳn các cuộc hội họp đông người. Song song với
quyết định của Sierra Leone, các nhà lãnh đạo quốc gia Liberia và Guinea
cũng đình hoản việc tham dự hội nghị với tổng thống Obama. Chính phủ
Liberia đã đóng cửa các trường học trong nước và cho toàn bộ công nhân
viên chức nhà nước nghỉ ba mươi ngày phép. Hội bác ái có tên Đoàn quân
Hòa Bình trong tuần qua đã triệt thoái tất cả 340 thiện nguyện viên của
họ ra khỏi lãnh thổ ba nước Liberia, Guinea, và Sierra Leone đang chìm
đắm trong nạn dịch Ebola.
Vũ khí chống lại hung thủ Ebola
Theo thông tin được cập
nhật đến nay, 90% trên tổng số nạn nhân bị nhiễm bệnh Ebola đã không
tránh được lưỡi hái tử thần. Hiện vẫn chưa có thuốc để điều trị hay
phòng chống căn bệnh nầy, mặc dù một số thuốc chích ngừa đang trong giai
đoạn nghiên cứu và thí nghiệm trên thú vật, trong đó có một liều có vẻ
như đầy hứa hẹn.
Một dược phẩm có tên
Tekmira do một nhà bào chế Canada thí nghiệm bằng ngân sách của chính
phủ Hoa Kỳ đài thọ, dùng các mẩu di truyền học gọi là RNA gắn vào thân
virút rồi tìm cách tiêu diệt nó bằng hệ thống miễn nhiễm – nhưng loạt
thí nghiệm nầy hiện đã tạm ngừng. Một thí nghiệm khác dùng chất thuốc có
tên favipiravir, hay tên khoa học là T-705, được chuẩn thuận dưới tên
thương mại là Avigan tại thị trường Nhật Bản, cũng đang được sử dụng để
thí nghiệm trên bệnh nhân cảm cúm, sau khi các thí nghiệm ban đầu trên
loài chuột cho thấy có khả năng chống lại được Ebola. Rồi đến một thứ
thuốc khác nữa tên BCX4430 do một công ty nhỏ tên BioCryst tiến hành thí
nghiệm trên loài khỉ, xem có vẻ hiệu nghiệm với điều kiện nếu được tiêm
chích trong vòng 48 giờ ngay sau khi nhiễm bệnh. Tiếp theo nữa, người
ta đang thử nghiệm các thứ thuốc đặt cơ sở trên kháng thể đơn dòng
(monoclonal antibodies), hình thành hệ thống miễn nhiễm chất đạm để làm
nơi dung nạp đặc biệt cho vi khuẩn. Một liệu pháp trong số nầy mang tên
MB-003, bảo đảm cho những con khỉ thí nghiệm được bảo vệ, với điều kiện
được chích ngay tức khắc sau khi vừa nhiễm virút bệnh, cũng như có chút
ít hiệu quả mặc dù lúc chích thuốc thì các triệu chứng của bệnh đã phát
khởi. Nhưng dù có hiệu nghiệm đi nữa, cũng phài chờ thêm nhiều năm trước
khi thuốc ngừa được chích vào thịt da con người. Từ đây tới ngày ấy,
nếu chẳng may bạn bị truyền nhiễm virút Ebola, thì chỉ còn một điều cuối
phải làm, là ăn năn tội để dọn mình chết. Con virút có thể gặm nhắm
toàn thể các ống mao dẫn (capillary) và các mạch máu của thân thể người
bệnh. Trong cuốn Spillover (Lan Tỏa) viết về nguồn gốc và sự tiến hóa
của các bệnh dịch tiêu diệt con người, tác giả David Quammen đưa ra một
lời khuyên rất cay đắng, nhưng là một sự cố vấn không thể chính xác hơn:
“Giả dụ chồng bạn dính virút Ebola, hãy cho anh thức ăn, nước uống và
tình yêu, có thể cầu kinh cho anh nữa, nhưng bạn phải giữ khoảng cách,
bền lòng chờ đợi, hy vọng vào phép mầu, và, nếu anh ấy ra đi, đừng dùng
tay chùi rửa cầu tiêu mà anh đã sử dụng. Tốt nhất là rút lui, đưa tay
hôn gió, rồi nổi lửa thiêu rụi cái tổ ấm của bạn. ”
|
| ||||
Tuy nhiên,
các triệu chứng rất bình thường của bệnh Ebola để người bệnh biết vẫn là
đau nhức các cơ bắp và vùng ngực, lên cơn sốt, nhức đầu như búa bổ, khô
họng, buồn nôn, và ói mửa, chưa kể hơn một chục biến chứng phụ khác.
Nếu thế, một người đang mang bệnh có thể tiếp tục đáp xuống lãnh thổ Hoa
Kỳ không? Tất nhiên là được. Tại đất nước nầy, tất cả mọi bác sĩ và y
tá trong các bệnh viện hay dưỡng đường luôn luôn dùng bao tay cao su, áo
choàng, mặt nạ và thuốc sát trùng. Những biện pháp phòng bệnh cơ bản
như thế rất hiếm khi được áp dụng ở bên Phi châu. Dịch Ebola chỉ trở
thành truyền nhiễm sang người khác khi người bệnh đã có các triệu chứng,
và khi đã thế, không ai còn đủ sức để bước lên máy bay. Chỉ trừ một ca
bệnh: hành khách Patrick Sawyer, công dân Hoa Kỳ duy nhất thiệt mạng
trong đợt dịch bệnh đang bùng phát hiện nay, đã té và hôn mê ngay trên
chuyến bay từ Liberia đi Lagos, để đổi tàu bay về nhà ở tiểu bang
Minnesota. Anh ta đã chết hôm 25/07 trước khi đáp chuyến bay nối đường
để về nhà mừng sinh nhật cô con gái của mình.
Một người tên Peter
Piot tuyên bố với Pháp Tấn Xã: “Dù có ngồi ở ghế sát với một người đang
bị virút Ebola, tôi cũng chẳng sợ, nếu như người ấy đừng ói mửa và phun
thức ăn vào người tôi. ” Ông Piot – viện trưởng Viện Đại học Luân Đôn
chuyên về y tế và vệ sinh vùng nhiệt đới – là một trong hai người đã
phát hiện virút Ebola hồi năm 1976, sau đó ông có thời gian hơn mười năm
làm giám đốc Chương trình AIDS của Liên Hiệp Quốc. Ông giải thích:
“Virút Ebola cần người kia tiếp cận trực tiếp với người bệnh, mới truyền
nhiễm được. ”
Ebola quả là chết chóc
hay tử vong, nhưng nhiều bản tin chấn động thế giới tiên đoán về một
trận đại dịch toàn cầu đã bỏ sót một điểm chủ yếu. Trong khi hoành hành
như một trận dịch, Ebola thường bị so sánh với HIV, mặc dù hai thứ bệnh
không có gì giống nhau. HIV đã làm chết không dưới 30 triệu người, hầu
hết là lan rộng trong âm thầm, cày xéo các tế bào mà nó nhiễm bệnh, rồi
lặng lẽ nằm vùng nhiều năm trước khi hủy hoại hệ thống miễn nhiễm của
người bệnh. Ngược lại, Ebola có tính tốc chiến tốc thắng, thời gian ủ
bệnh của nó chỉ kéo dài từ hai đến hai mươi mốt ngày. Con Ebola tàn sát
một cách chớp nhoáng, nó không có tính âm ỉ nhỏ giọt và trường kỳ kháng
chiến. Có điều, Ebola không giết tất cả chúng ta – nhưng một cái gì đó
làm thay cái việc thi hành bản án tử. Cũng như tất cả mọi thứ trên đời,
con virút cũng cần phát triển để sống còn. Vì thế cúm gia cầm (avian
influenza) tuy đã tạo ra nhiều lo âu nhưng vẫn không biến hóa thành một
thứ nhiễm trùng để lan tràn nhanh chóng. Dịch bệnh có thể sẽ chẳng đời
nào bùng phát, nhưng nó vẫn có thể xảy ra vào sáng sớm hôm sau, bất ngờ
như một hỏa diệm sơn mà chúng ta biết sẽ phun lửa, nhưng không tiên đoán
được nó sẽ thịnh nộ vào lúc nào. Giống như cách nói của tác giả David
Quammen, “mọi thứ virút đang hiện diện cũng như tấm vé số, kẻ mua số là
mầm bệnh, có thể chẳng trúng lô nào, nhưng cũng có thể trúng lớn, hoặc
thậm chí trúng độc đắc, ôm vào tay số tiền kếch xù mình chưa hề có, để
vung vít vì đời mình chưa từng ném tiền qua cửa sổ. Khó đấy, nhưng vẫn
có kẻ trúng lô lớn nhất. ”
Tất nhiên là ông tác
giả nầy có lý, vì chúng ta sẽ còn mất rất nhiều thời gian để hình thành
một hệ thống hiệu quả nhằm theo dõi dễ dàng các bước phát triễn của
Ebola. Nếu chúng ta thúc thủ, thì cơn dịch kế tiếp do Ebola tàn phá sẽ
khó lường.
Nạn dịch Ebola hiện nay
Không biết cơn dịch
đang nổ bùng ra ở châu Phi có phải là bước đầu của đại họa kế tiếp do
Ebola mà Quammen đã lo lắng. Trước mắt, chính phủ Hoa Kỳ đã cảnh cáo
công dân sắp du hành tới ba quốc gia Phi châu đang lâm nạn.
Trung tâm Kiểm soát và
Phòng ngừa Dịch bệnh CDC đã khuyên những người không có nhu cầu thực tế
thì đừng tới các nước Liberia, Guinea và Sierra Leone, nơi cơn bệnh giết
người đã làm chết ít ra 729 người và tuyên án tử hình treo trên 1. 300
bệnh nhân khác. Giám đốc CDC, ông Thomas Frieden, cho biết thực trạng
“Ebola đang mỗi lúc càng tệ hại hơn ở Tây Phi” và cơ quan của ông đã gởi
50 nhà chuyên môn tới các địa phương để cố vấn những nước lâm nạn về
cách kiểm soát cơn dịch bệnh, trong khi các cơ quan y tế thế giới khác
đang bi quan cho rằng nạn dịch Ebola đã vượt khỏi tầm kiểm soát, và ít
ra cũng cần nửa năm nữa mới có thể chế ngự sự lây lan, vì hiện vẫn chưa
có thuốc đặc trị hay phòng ngừa con virút quái ác ấy. Phía Tổ chức Y tế
Thế giới, một cơ quan chuyên trách về y tế của Liên Hiệp Quốc cũng nhập
cuộc. Trong diễn văn nhắn nhũ 3 nước đang bị dịch, tổng giám đốc cơ quan
nầy, bà Margaret Chan nhận định rằng các nỗ lực để cầm chân cơn bùng
phát bệnh vẫn chưa đủ. Bà nói “đây là sự bùng phát bệnh chưa hề xẩy ra,
đi kèm với các thách thức mà chúng ta chưa từng có kinh nghiệm. Các
thách thức nầy vượt quá mức bình thường phải đối phó của con người. Tốc
độ lan rộng của nạn dịch nhanh hơn các cố gắng của chúng ta để kiểm soát
nó. Nếu tình trạng nầy cứ tiếp tục xuống cấp, hậu quả có thể tới mức
thảm khốc khi kể về tổn thất nhân mạng, chưa kể sự xáo trộn kinh tế và
xã hội trầm trọng, và nguy cơ tràn lan tới các quốc gia khác rất cao. ”
Bà dự trù sẽ cùng ba chính phủ Tây Phi công bố một ngân sách chung tới
100 triệu đô để đáp ứng tình hình.
Trong khi chính phủ
khuyên công dân đừng tới Tây Phi lúc nầy, Bộ Ngoại Giao vẫn không hạn
chế hay ngăn cấm nếu người Mỹ quyết định tới các nước đang lâm nạn dịch
bệnh kể trên, mặc dù dân biểu Alan Grayson đề nghị hành pháp có các biện
pháp khẩn cấp để phòng ngừa mầm bệnh được mang theo vào Mỹ. Ông Grayson
là thành viên của tiểu ban Ngoại Giao Hạ viện, muốn Bộ Ngoại giao cấm
nhập cảnh công dân các nước Guinea, Liberia và Sierra Leone, cũng như
cấm bất cứ du khách nào vừa ghé 3 nước ấy trong 3 tháng vừa qua được vào
Mỹ.
Như vừa nói trên, các
triệu chứng của bệnh Ebola cũng “nhẹ nhàng” như khi bị cảm cúm, trong
giai đoạn từ 2 đến 21 ngày. Nạn nhân có thể trải qua tình trạng xuất
huyết nội hoặc ngoại, thường tắt thở do các cơ quan nội tạng ngừng hoạt
động trong vòng một hay hai tuần. Virút Ebola lan truyền trong dân chúng
qua việc tiếp xúc trực tiếp với máu hay các dung dịch từ thân thể người
bệnh (nước tiểu, phân lỏng, nước miếng, nước mắt, nước mũi...) nhưng
không lây khi người bệnh ho hoặc hắt hơi.
Virút Ebola khởi sự tấn công loài người từ lúc nào?
Trường hợp ngộ nạn đầu
tiên do virút Ebola được ghi nhận trong tuần lễ đầu của tháng Tư năm
nay, tại Bệnh viện Huấn nghiệp Komfo Anokye ở khu vực Ashanti bên trong
thủ đô Kumasi của nước Ghana, với cái chết của một nữ bệnh nhân 12 tuổi.
Ngay sau đó, các bác sĩ và nhân viên y tế chính phủ đã họp khẩn cấp để
thảo luận về ca bệnh ngay trong ngày Chủ Nhật 6/04/2014. Thoạt đầu, bệnh
nhân được nhập vào khoa nhi của bệnh viện, do triệu chứng sốt cao và
xuất huyết. Phó giám đốc Sở Y tế Công cộng khu Ashanti, bác sĩ Joseph
Oduro cho biết mẩu máu của người bệnh đã được gấp rút chuyển tới viện
Noguchi Memorial để xét nghiệm, và việc khám tử thi đã xác định em bé bị
chứng xuất huyết nội. Phản ứng cấp bách được áp dụng sau khi tin tức từ
các nước láng giềng Guinea, Liberia và Mali, cũng đã ghi nhận nhiều
trường hợp nhiễm bệnh do virút, với hàng chục người đã tử vong.
Đến nay, riêng tại
Guinea đã có trên 70 bệnh nhân chết do virút Ebola, trong thời gian bùng
phát mới hơn một tháng. Theo thống kê, con số những người lây bệnh đã
chết lây xê dịch từ 25% đến 90%, sau khi có triệu chứng xuất huyết, tiêu
chảy và nôn mửa. Chính quyền địa phương trấn an dân bằng cách khuyên cứ
phớt lờ các bản tin tường thuật về dịch Ebola đang lan tràn trong nước,
cho đến chừng nào nhà nước chính thức công bố kết quả xét nghiệm. Một
viên chức đặc trách giao tế dân sự của Bộ Y tế Ghana, ông Tony Goodman,
cho thông tấn xã Joy hay rằng giới truyền thông chẳng cần thiết phải tạo
ra bất cứ sự lo sợ hay hoảng loạn nào vì chính phủ đã biết rõ rồi và
đang đối phó với vấn đề nầy. Ông nói thêm quốc gia ông đã có các hệ
thống theo dõi nạn dịch mà các nước lân cận ông đã xảy ra các trường hợp
tử vong do con virút ghê rợn nầy.
|
Virút Ebola từ đâu đến?
Ebola không chỉ tấn
công người dân châu Phi cùng khổ, thiếu thốn phương tiện vệ sinh. Trong
số người chết đã có một nhân viên thiện nguyện y tế và một bác sĩ quốc
tịch Hoa Kỳ.
Một lý do để Ebola được
xếp loại vào hàng ngũ kẻ thù kinh khủng của nhân loại, là vì tính bất
trị của nó. Bất cứ ai dính vào nó và không được chữa chạy tức khắc, kết
quả không tránh được là cái chết. Kể từ năm 2008, mỗi đợt bùng phát
trước đây Ebola chỉ làm chết vài chục người là tối đa, nên chuyện đã bị
chìm xuồng. Vậy đợt nầy có gì tệ hại hơn?
Trong các đợt bộc phát
bệnh trước đây, con virút ghê rợn có liên hệ tới những người chuyên săn
lùng khỉ đột và vượn tinh tinh để lấy thịt làm thực phẩm, hay ăn thịt
những con khỉ không đuôi dạng người (ape) chết trong rừng. Nay dịch bệnh
lan tràn ở phía tây Phi châu, nơi không có loài khỉ đột, nên các nhà
nghiên cứu cho rằng nguyên nhân chỉ có thể là do loài dơi quạ (fruit
bat). Hồi 2007 ở Uganda, dịch Ebola được truy nguyên là bắt nguồn từ lũ
nhi đồng chuyên đùa giỡn với dơi quạ trong hang. Chúng mang xác hai con
dơi về nhà để các bà mẹ làm thức ăn cho chúng, rồi mới sinh tai họa.
Lần nầy, các nhà chuyên
môn chưa đưa ra kết luận chắc chắn, nhưng theo Jonathan Epstein, một
nhà sinh vật kiêm dịch tể học của EcoHealth Alliance, cho rằng dứt khoát
tập tục dùng thịt dơi làm thức ăn phải đóng một vai trò nào đó. Ông
nhận xét: “Mặc dù chưa có gì để xác nhận liệu có phải dịch bệnh do làm
thịt dơi, hay tiếp xúc với dung dịch từ xác con dơi trong đó có mầm
virút Ebola. Ngoài ra, các trại chăn nuôi lợn ở Phi châu thường là nơi
trú ngụ lý tưởng của loài dơi, cũng là một nguyên nhân nữa để xem xét. ”
Một khi nạn nhân đã có
các triệu chứng lây bệnh như ói mửa, nhức đầu rồi, văn hóa địa phương
còn đóng vai trò tích cực hơn để góp phần giúp nạn dịch phát triển một
cách đắc lực. Ở những nơi cùng trời cuối đất nầy, vừa thiếu bác sĩ vừa
thiếu thuốc men để chăm sóc bệnh nhân Ebola, nhưng ngay cả khi có đủ,
người dân vẫn không tin tưởng vào tây y. Bác sĩ Epstein cho hay “Trong
cơn tuyệt vọng trước tốc độ lây lan của nạn dịch, dân địa phương bán tín
bán nghi vào những người thiện nguyện làm công tác y tế đến từ các nước
phương Tây. Họ phải đối phó với quá nhiều thành kiến và luận tội, chỉ
tin tưởng thuốc men của lang băm và phù thủy địa phương đóng vai thầy
thuốc trong các xóm làng. ” Khi bệnh nhân qua đời, truyền thống buộc thi
thể người chết phải được chính tay gia đình tắm rửa – một cơ hội truyền
nhiễm bệnh hết sức hiệu quả. Vẫn chưa hết: chính những bàn tay không
sát trùng của thân nhân sau khi tắm rửa xác chết quay ra nấu nướng thức
ăn cho những người tới dự đám táng, để nhân lên số người được chia sớt
virút bệnh, mang về mỗi nhà để truyền tiếp cho lớp khác. Nếu bệnh nhân
chết tại lều y tế, xác sẽ được khử trùng rồi đem đốt hoặc chôn để ngăn
lây truyền bệnh, thay vì trả lại cho thân nhân, điều nầy trở thành sự
đau đớn cực độ về thể xác và tinh thần cho người nhà. Do đó, khi người
thân chết, họ tổ chức cướp xác về để làm các thủ tục phản khoa học và vệ
sinh phòng bệnh. Phần khác, do tốc độ truyền nhiễm Ebola quá nhanh,
những nạn nhân đến lều y tế lắm khi không trở lại lần thứ nhì, vì họ
nghĩ rằng chính các bác sĩ ngoại quốc mới chính là thủ phạm lây lan
bệnh, nên họ dồng lòng che giấu người bệnh, cho nằm nhà để bị xuất huyết
và truyền virút sang kẻ khác. Một nữ bệnh nhân ở Sierra Leone sau khi
xác định dương tính đang mang bệnh đã trốn khỏi bệnh viện; có nhiều xóm
làng khác cấm không cho các bác sĩ đặt chân vào cộng đồng của họ.
Hầu như khắp nơi, tục
lệ ăn thịt dơi đã là truyền thống tương tự ăn cơm bữa của người Việt,
một thói quen từ thủa mới lọt lòng mẹ. Họ không hình dung được sợi dây
liên hệ giữa chuyện săn dơi, giết dơi ăn thịt và bị bệnh. Nếu các thầy
lang có vì lòng nhân đạo mà cảnh cáo họ rằng thịt thú hoang làm họ lây
bệnh, họ vẫn không tin, mà chỉ nghĩ bệnh hoạn do quyền phép mầu nhiệm
của quỷ thần. Thật khó để thuyết phục người dân miền tây châu Phi tin
vào các phát hiện của khoa học, nhất là khi nạn dịch lây lan do một thứ
virút hiếm hoi, ngàn năm một thủa mới xảy đến cho cộng đồng của họ,
trong khi thịt dơi ngày càng quá hiếm. Trước mắt, nhiều người ăn cả chục
hay cả trăm con dơi mà vẫn mạnh khỏe như voi, chỉ đến khi ăn con dơi
thứ 101, mới đổ nợ; giống như ở Bắc Mỹ chúng ta vẫn nghe nhàm tai bệnh
bò điên (bò bị viêm não thể bọt biển, tiếng Anh: bovine spongiform
encephalopathy), nhưng các thông tin ấy không ngăn được chúng ta tiếp
tục ăn hamburger đều đều. Cơ hội nhiễm bệnh Ebola rất thấp, nguy hiểm
chỉ đến khi nhân loại nhân lên nhiều lần số người bị lây bệnh, một
truyền cho mười, mười người truyền cho cả trăm, để tạo thành một nạn
dịch.
Lời báo động xưa cũ bị cố tình bỏ quên
Hai mươi hai năm trước,
ngày 26/10/1992, ký giả Richard Preston công bố một bài báo dài 22
trang trên tờ The New Yorker dưới tựa đề “Crisis in the Hot Zone” (Khủng
hoảng trong Vùng Trọng điểm), tường thuật hiện tượng Ebola phát khởi
ngay tại viện nghiên cứu y khoa quốc phòng nằm khuất lấp bên trong Căn
cứ Fort Detrick gần thủ đô Washington vào năm 1989, với các triệu chứng
độc đáo của Ebola cũng như mối hiểm nguy chưa hề thấy mà căn bệnh đe dọa
các bác sĩ và những nhà nghiên cứu tiếp cận nó:
“Một dấu hiệu nhiễm
bệnh Ebola rất cổ điển... là sự cảm nhận hằn lên mặt người bệnh khi
virút Ebola đang hoành hành trong cơ thể. Sắc mặt trở thành trơ, không
mẩn cảm, như mang mặt nạ –chữ mà bác sĩ mô tả là ‘mặt ma’ – với cặp mắt
thao láo, vô hồn, trũng sâu. Bệnh nhân mở trừng mắt nhìn nhưng cách nhìn
như của thây ma sống lại nhờ phù phép. Điều nầy xảy ra sau khi Ebola
tàn phá màng não. Khuôn mặt vô hồn ấy xuất hiện trên cả hai đối tượng,
người và khỉ, bị nhiễm virút. Cả hai phản ứng giống hệt như đã được tẩm
thuốc ướp xác, mặc dù chưa chết hẳn. Phản ứng mỗi người bệnh có thể khác
nhau: buồn thảm, hằn học, giao động, hoặc rối loạn tâm thần. Một số còn
trốn khỏi bệnh viện. Máu đọng làm nghẽn các mạch dẫn tới các mô, gây ra
hoại tử – các mảng chết trên gan, lá lách, não, thận và phổi. Ở các ca
bệnh nặng, Ebola giết chết quá nhiều mô đến độ sau khi bệnh nhân tắt
thở, tử thi bị hủy hoại rất nhanh. Ở loài khỉ, và có thể ở trên con
người, một dạng tan rã xảy ra như nước đá gặp nắng, làm các mô kết nối,
da, và các cơ quan nội tạng vốn đã trở thành lốm đốm với các mảng chết
cũng như bị làm nóng bởi cơn sốt, nay bắt đầu chảy nhớt, và dòng máu lệt
sệt không đông đặc nhễu ra từ tử thi thẩm màu hơn với các phần tử
Ebola. Hiện tượng nầy có thể xem là một trong những chiến lược của loài
Ebola để thành công trong tiến trình tàn phá nhân loại. ”
Nhà báo Preston kể rằng
nhiệm vụ của nữ trung tá Nancy Jaax trong chương trình thí nghiệm của
Lục quân Mỹ hồi 1980 là xẻo xác khỉ chết vì bệnh Ebola ra từng mảnh để
quan sát. Bộ áo quần giống phi hành gia không gian của bà mặc có đến ba
lớp bao tay. Một bữa, người đồng sự của bà chợt thấy một lỗ thủng trên
bao tay bên phải của bà, đang nhuộm đầy máu của con thú chết vì virút
Ebola. Sau khi nhúng bao tay vào thuốc sát trùng Envirochem rồi cỡi ra,
bà Jaax thấy máu khỉ còn đọng lại bên trong, do lọt được qua lỗ thủng
của chiếc bao tay dày mo. Sau đó, có cái gì đó sền sệt trong chiếc bao
tay nặng, làm bà nghĩ không khéo có chỗ hở. Bà mang cả chiếc bao tay rửa
trong thuốc, trước khi mặc nguyên bộ quần áo dính liền bước vào phòng
ngăn không khí làm thủ tục sát trùng toàn thân. Khi cỡi xong bộ quần áo,
bà thấy tay mình nhuộm đỏ máu, mới nhớ ra rằng trước đó khi chuẩn bị
thức ăn cho gia đình ở nhà, lưỡi dao gọt vỏ trái cây đã cắt phạm vào
ngón tay, và bà đã quấn quanh chỗ cắt bằng một miếng băng dán. Vấn đề
đặt ra là trong số máu của con thú bệnh lọt vào bao tay, có giọt máu nào
thấm qua được miếng băng dán để chui vào vết cắt không. Nếu có, kể như
bà bác sĩ trẻ trung 42 tuổi đã lãnh bản án tử hình.
Theo lượng thông tin có
được hồi 1992, Ebola có hình dạng hình dây như sợi bún, là một trong
các lớp virút được biết đến dưới dạng filovirus, tức chủng loại virút
nguy hiểm cho tính mạng con người. Các nhà khoa học đã lấy tên con sông
Ebola, một phụ lưu của sông Zaire ở Congo để đặt cho con virút giết
người, sau khi cơn bệnh lạ bùng phát đồng loạt tại 55 ngôi làng khác
nhau dọc con sông Ebola, giết chết 85% tổng số người bị lây bệnh. Nếu
đừng kể đến bệnh dại và bệnh HIV, thì Ebola chiếm ngôi vị cao nhất trong
lãnh vực làm chết con người do một thứ virút. Con đường chính để Eboda
lây lan là qua tiếp xúc của người trong gia đình với máu và các chất
lỏng từ xác của thân nhân chết bệnh rỉ ra. Nạn nhân của Ebola chết
khoảng một tuần sau khi có dấu hiệu bệnh đầu tiên xuất hiện, thường là
cơn nhức đầu vớ vẩn. Ngay sau đó, người bệnh lên sốt cấp tính, rồi phát
triển thành những biến chứng phức tạp khác, trong đó có hai hiện tượng
ngược nhau: vừa đọng máu, vừa hoại huyết. Các dòng máu từ người bệnh ứa
ra lợn cợn các mảng đông đặc, xuất phát từ não, gan, và lá lách – tiếng
chuyên mô là DIC, tức Disseminated Intravascular Coagulation (hội chứng
đông máu lan tỏa nội mạch), có thể hiểu là tình trạng đột quỵ toàn thân.
Chưa ai giải thích được tại sao Ebola làm đông máu. Khi tiến trình đông
máu làm nghẽn máu cung cấp cho nội tạng, thì cơ thể cũng xảy ra tình
trạng hoại huyết. Da người bệnh có những chỗ bầm tím như bị đánh đòn,
nước mắt trào ra không kiểm soát được, ruột và hai tròng mắt chứa đầy
máu bầm. Mí mắt rỉ máu. Có thể bị tê liệt một bên dọc nửa thân người,
trong khi máu trào ra từ mũi, miệng, mắt và hậu môn. Cái chết chỉ chịu
đến sau khi bệnh nhân bị tra tấn cùng cực. Virút Ebola có vẻ như tàn phá
được khả năng miễn nhiễm của cơ thể con người, trong khi để chống trả
lại, chúng ta chỉ có thể làm những điều vô bổ và thụ động như khi chống
lại một trận sốt rét.
Trước cả chuyện của nữ
bác sĩ Nancy Jaax, đi lùi lại thêm 13 năm, vào ngày 6/07/1976, ở thị
trấn Nzara thuộc nước Sudan, trong miền rừng rú hoang vu cây cối che kín
mặt đất nằm sát bìa rừng nhiệt đới Phi châu, một người đàn ông tên YuG
chết vì triệu chứng sốt xuất huyết. Ông nầy là thủ kho của một nhà máy
chế biến bông gòn, chết vì một chủng loại virút mới thuộc dòng
filovirus, với các triệu chứng mà về sau mới được gọi tên là bệnh virút
Ebola. Tiếp theo đó, hai người đồng sự với anh nầy cũng chết cái chết
tương tự. Không ai biết được con virút lọt vào nhà máy thế nào, để sau
đó cơn dịch bệnh lan ra khỏi thị trấn, tràn qua thành phố Maridi ở mạn
đông, lọt vào bệnh viện lớn ở đây, triệt hạ các y tá và nhân viên bệnh
viện, rồi tới bệnh nhân, và mở rộng tới thân nhân người bệnh, làm nhân
viên bệnh viện hoảng sợ, trốn việc. Qua tháng 9, một trận dịch khác bùng
ra cách đó 500 dặm trong vùng Bumba của nước Zaire, nơi con sông Ebola
dồn nước xuống. Từ những ngày đầu ấy đến nay đã có 2. 273 trường hợp tử
vong được ghi nhận.
Quốc gia Liberia đã ra
lệnh đóng của biên giới để ngăn bệnh lan tràn từ các nước láng giềng,
nhưng các phi trường vẫn mở cửa. Hai công dân Mỹ, bác sĩ Kent Brantly và
y tá Nancy Writebol, bị nhiễm Ebola đang khi làm việc thiện nguyện
trong vùng có dịch, bị lây bệnh, và được không vận về điều trị ở
Atlanta. Bác sĩ Samuel Brisbane, một viên chức cao cấp ngành y tế của
Liberia, lây bệnh khi khám nghiệm bệnh nhân, đã mất mạng, sau khi một
bác sĩ khác chết bên Uganda, cũng do con Ebola là thủ phạm. Nhân viên
hải quan và di trú ở các phi trường Anh đang bối rối không biết phải xử
trí thế nào nếu một hành khách nhập cảnh trong tình trạng nhiễm bệnh đến
từ châu Phi. Tuy nước Mỹ cách xa châu Phi một biển Đại Tây Dương mênh
mông, nhưng vẫn chỉ là khoảng cách của một chuyến bay, như đã xẩy ra cho
hành khách Charles Monet, bị bác sĩ bó tay nên tống người bệnh lên
chuyến bay bay đi Nairobi. Trên tàu, ông khách đã ói mửa tràn lan chất
đỏ chất đen, biến lòng máy bay thành một lò sát sinh. Ông chết trước khi
tới bệnh viện, nhưng những con virút trong máu, nước miếng và đờm của
ông vẫn sống một cách hùng dũng.
Bác sĩ Jay Varkey của
bệnh viện Emory – nơi bác sĩ Kent Brantly và y tá Nancy Writebol được
cách ly và điều trị – nói rằng người Mỹ không cần thiết phải lo sợ là
bệnh sẽ tràn lan tại Hoa Kỳ. Cách trị liệu hiện nay chỉ là làm cho cơ
thể người bệnh khỏe khoắn hơn, để tự nó đối phó với mầm bệnh.
Dù sao đi nữa, chúng ta
phải nhìn nhận y khoa của loài người đang bó tay trước đối thủ Ebola.
Cái còn lại có lẽ chỉ là hy vọng vào lời cầu nguyện.
NgyThanh
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét